Alain Bombard đã có cuộc phiêu lưu trên biển kéo dài 65 ngày từ 19/10 đến 23/12 năm 1952. Vào mùa xuân năm 1951 Alain Bombard, một bác sĩ thực tập trẻ tuổi (sinh ngày 27/10/1924) vừa mới bắt đầu sự nghiệp tại bệnh viện Boulogne, kinh ngạc khi biết được số thủy thủ qua đời trên chiếc tàu gặp nạn gần bờ «Notre-Dame de Peyragude». Do sương mù chiếc thuyền đã va vào tảng đá. Có 43 thủy thủ chết. Sau vài tiếng xác của họ được phát hiện, và đặc biệt là tất cả mặc áo phao cứu hộ! Điều đó đã tạo động lực cho bác sĩ trẻ đi sâu vào nghiên cứu việc giúp cho những người gặp nạn trên biển.
Bombard nghĩ tại sao lại có nhiều ngườ gặp nạn trên biển đến thế? Hàng năm có hàng nghìn người chết trên biển. Và đến 90% trong số đó chết trong 3 ngày đầu tiên. Tại sao vậy? Nếu chết vì đói và khát thì cần nhiều thời gian hơn. Bombard đã viết sách: «Những nạn nhân của các vụ chìm tàu lớn, tôi biết các bạn không phải bị biển, hay đói và khát giết chết, các bạn chết vì sợ hãi!».
Alain Bombard từ khi còn đi học đã quan tâm đến việc sinh tồn trong điều kiện khắc nghiệt. Ông nghiên cứu các câu chuyện của nhiều người sống sót sau các vụ tai nạn tàu. Bombard tin rằng nhiều người trong số đó sống sót bằng cách vượt qua giới hạn y tế và sinh lý của mình. Có người sống sót trên bè và thuyền, trong cái lạnh và dưới cái nắng như thiêu đốt, trong một đại dương đầy bão tố, với nguồn cung cấp nước và lương thực nhỏ bé vào ngày thứ năm, thứ mười và thậm chí thứ năm mươi sau thảm họa.
Với tư cách là một bác sĩ hiểu rõ cơ thể con người, Alain Bombard tin rằng nhiều người gặp nạn trên biển đã chết trước khi cơ thể kiệt sức. Sự tuyệt vọng đã giết chết họ. Và cái chết như thế không chỉ đến với những hành khách bình thường mà còn với những thủy thủ lão luyện.
Vì vậy Alain Bombard quyết định đi một chuyến dài trên biển để trải nghiệm và chứng minh rằng: 1. Con người sẽ không chết đuối nếu có bè cứu sinh bơm hơi. 2. Con người sẽ không chết đói và không bị bệnh zona nếu ăn sinh vật phù du và cá sống. 3. Con người sẽ không chết khát nếu uống nước vắt ra từ cá, và uống nước biển trong 5-6 ngày.
Ngoài ra ông rất muốn xóa bỏ quy tắc ngừng tìm kiếm người gặp nạn sau 1 tuần hoặc 10 ngày. Chính sau cuộc thử nghiệm của Alain Bombard trên các tàu cỡ vừa và nhỏ người ta bắt đầu sử dụng rộng rãi các bè cứu sinh nhỏ – cho 6, 8, 10. Còn đối với việc ăn cá sống – dân bản địa vùng Bắc Cực – chukcha, nenets, eskimo, thường xuyên ăn cá sống và thịt sống của các động vật biển để bổ sung vitamin C, thứ có nhiều trong hoa củ quả, nhưng rất thiếu thốn ở vùng này.
Thực hiện kế hoạch của Bombard không hề dễ dàng. Bombard mất 1 năm để chuẩn bị cho cuộc phiêu lưu về mặt lý thuyết và mặt tinh thần. Ông nghiên cứu rất nhiều tài liệu về tai nạn trên biển, về nguyên nhân, về các phương tiện cứu sinh. Sau đó ông thử nghiệm chỉ ăn những thứ có thể có được trên biển khi gặp nạn. Từ tháng 10 năm 1951 ông mất nửa năm tại các phòng thí nghiệm của Bảo tàng Hải dương học Monaco để phân tích thành phần hóa học của nước biển, các loại sinh vật phù du, cấu tạo của các loại cá.
Theo nghiên cứu của ông, 50 đến 80% của cá là nước, mà là nước ngọt, và thịt của cá biển có ít muối hơn thịt động vật trên cạn. Vì vậy có thể vắt nước uống từ con cá. Còn nước mặn của biển thì có thể uống một ít trong vòng 5 ngày để cơ thể không bị mất nước. Các sinh vật phù du bao gồm các vi sinh vật và tảo là thức ăn duy nhất cho động vật có vú lớn nhất – cá voi, điều đó chứng minh giá trị dinh dưỡng của nó.
Có nhiều người ủng hộ ý tưởng của Bombard và hỗ trợ cho ông bằng nhiều cách, nhưng cũng có nhiều người nghi ngờ, hoài nghi, thậm chí còn tỏ ra thù địch với ông. Không phải ai cũng hiểu giá trị nhân đạo của việc đó, thậm chí có người coi việc đó là dị giáo và gọi ông là kẻ dị giáo. Những người đóng tàu thì cho rằng ông không thể điều khiển chiếc bè cứu sinh bơm hơi vượt qua biển. Các thủy thủ thì ngạc nhiên vì người không có kinh nghiệm lái tàu lại muốn thực hiện ý tưởng điên rồ đó. Các bác sĩ thì sợ hãi khi biết Alain định sống sót bằng cách ăn cá sống và uống nước biển.
Ban đầu ý tưởng là có thêm 2 người đi cùng ông. Nhưng như thường lệ, thực tế khác xa với lý thuyết. Khi Bombard nhận được chiếc bè cao su bơm hơi có kích thước tương đương chiếc ô tô, ông đã nhận ra là trong chuyến đi dài sẽ không thể nào có 3 người được. Chiếc bè có độ dài 4,65m, rộng 1,9m. Nó có hình dáng như cây xúc xích uốn thành chữ U và 2 đầu được nối bằng gỗ. 2 bên có 4 phao bơm hơi riêng biệt. Ngoài ra có cánh buồm to khoảng 3m2. Bombard đã đặt tên cho nó là «Kẻ dị giáo»! Ngoài ra không có trang bị gì thêm, chỉ có la bàn, sextant, sách định vị, bộ sơ cứu và phụ kiện máy ảnh.
Sáng ngày 25 tháng 5 năm 1952 chiếc thuyền đã kéo «Kẻ dị giáo» ra xa khỏi bờ biển để nó không bị dạt vào bờ. Và khi họ còn lại một mình giữa biển, Bombard và Palmer bắt đầu sợ hãi. Alain sau này viết: «Nỗi sợ hãi chờ chiếc thuyền cuối cùng đi khỏi tầm mắt để bắt đầu tấn công chúng ta … Nhưng sau đó chúng ta mới trải qua nỗi sợ thực sự, còn lúc khỏi hành đó chỉ là lo âu nhất thời. Nỗi sợ hãi thực sự – là khi tâm trí và cơ thể hoảng loạn trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, lúc đó cảm thấy như một mình mình chống lại cả vũ trụ». Việc vượt qua nỗi sợ cũng khó như việc kiếm đồ ăn và nước uống giữa biển. Bombard và Palmer mất 2 tuần trên Địa Trung Hải. Suốt thời gian đó họ không động đến lương thực khẩn cấp, mà chỉ ăn những gì có trên biển. Đó là trải nghiệm đầy khó khăn.
Bombard cho rằng cuộc thử nghiệm đầu tiên thành công và bắt đầu chuẩn bị cho chuyến dài ngày hơn. Nhưng Jack Palmer, người đầy kinh nghiệm, người từng một mình vượt quả Đại Tây Dương trên chiếc thuyền nhỏ, tuy nhiên trên đó có đầy đủ lương thực và trang bị, đã từ chối. 2 tuần là quá đủ với ông, Palmer sợ hãi khi nghĩ đến việc trong thời gian dài chỉ ăn cá sống, ăn vi sinh vật và tảo dù bổ dưỡng những rất khó nuốt và uống nước vắt từ cá pha với nước biển.
Bombard thì quyết tâm tiếp tục thử nghiệm. Hành trình của ông là từ Địa Trung Hải dọc bờ biển Châu Phi đến Casablanca, sau đó từ Casablanca đến đảo Canary. Và sau đó vượt Đại Tây Dương bằng con đường hàng thế kỉ người ta đi đến Mỹ, bao gồm cả Columbus. Con đường đó nằm xa cách hành trình tàu hiện đại, nên khả năng gặp tàu khác gần như bằng không. Đó chính là điều Bombard mong muốn để cuộc thử nghiệm «trong sạch».
Nhiều người ngăn cản ông tiếp tục hành trình sau khi «Kẻ dị giáo» sau 11 ngày đã đi từ Casablanca đến đảo Canary. Hơn nữa, đầu tháng 9 vợ của Bombard ở Paris đã sinh con gái. Nhưng ông bay từ Las-Palmas đến Paris thăm vợ con vài ngày rồi lại tiếp tục chuẩn bị cho hành trình. Ngày 19 tháng 10 năm 1952 «Kẻ dị giáo» đã được đưa từ cảng Las-Palmas ra giữa biển. Gió đông-bắc đã đưa nó đi. Bombard đã phải trải qua không biết bao nhiêu khó khăn!
Vào một trong những đêm đầu tiên Bombard gặp bão lớn. Chiếc bè đã bị ngập nước. Cần phải tạt nước ra ngoài mà không có gáo hay đồ gì dùng được, cuối cùng ông dùng chiếc mũ của mình trong suốt 2 tiếng đồng hồ. Ông kể lại: «Đến giờ tôi cũng không hiểu tại sao tôi đã sống sót được. Những người gặp nạn trên biển, hãy cứng đầu hơn biển thì các bạn sẽ chiến thắng!». Sau cơn bão đó Bombard tin rằng «Kẻ dị giáo» không thể bị lật. Vài ngày sau ông lại gặp thử thách mới – gió to làm rách cánh buồm. Bombard có cánh buồm dự phòng nhưng nửa tiếng sau nó cũng bị bay đi mất. Lại phải sửa chiếc cũ và dùng nó suốt 60 ngày còn lại.
Bombard cố tình không mang cần câu hay các dụng cụ tiện lợi khác. Ông tự chế cây lao bằng cách buộc dao vào đầu mái chèo và dùng nó để đánh bắt cá. Sau đó ông dùng xương cá làm móc cần câu. Dù các nhà khoa học dọa ông là ở xa bờ sẽ không bắt được bất cứ cái gì, thực tế là có rất nhiều cá ở ngoài biển. Cá ở đây không sợ người nên vây quanh chiếc bè rất nhiều. Đặc biệt có nhiều cá bay, vào ban đêm chúng nhảy trúng cánh buồm và tự rơi vào trong bè, mỗi buổi sáng Bombard nhặt được 5-15 con. Ngoài ra Bombard ăn vi sinh vật và tảo biển. Thỉnh thoảng ông bắt được chim, ông cũng ăn tươi chúng, chỉ bỏ phần da và mỡ.
Trong khoảng 1 tuần ông uống nước biển, sau đó là nước vắt ra từ cá. Sau những đêm có sương mù thì ông có được thêm 1 ít nước ngọt đọng trên cánh buồm. Vào tháng 11, sau một cơn mưa lớn ông đã thu thập được gần 15 lít nước ngọt.
Vì liên tục trong môi trường ẩm, xung quanh toàn nước mặn và ăn uống thất thường nên trên người Bombard nổi nhiều mụn. Các vết thương nhỏ bị nhiễm trùng và lâu lành. Móng tay cũng bắt đầu nhiễm trùng. Da ở chân thì bị bong, có 4 ngón chân bị rụng móng. Nhưng huyết áp luôn được giữ ổn định. Bombard theo dõi và ghi chép tình trạng cơ thể vào nhật kí. Sau cơn mưa kéo dài nhiều ngày, nước ở khắp nơi, ông ghi lại: «Tình trạng tinh thần rất sảng khoái, nhưng do ẩm ướt kéo dài nên cơ thể khá mệt mỏi».
Tuy nhiên nắng gắt và không có gió vào tháng 12 còn khó chịu hơn. Chính lúc đó Bombard đã viết di chúc, vì đã mất niềm tin là có thể sống sót đến khi đến đất liền. Trong hành trình ông tụt 25kg, còn mức huyết sắc tố đã hạ đến mức báo động. Vậy mà ông vẫn sống sót!
Ngày 23 tháng 12 năm 1952 «Kẻ dị giáo» đã tới bờ đảo Barbados. Ông mất 3 tiếng để chèo dọc bờ phía đông do ở đó sóng rất mạnh, và cuối cùng ông dừng lại ở bờ phía tây.
Trên bờ có nhóm ngư dân và trẻ con đón ông, chúng vây quanh ông, đồng thời trộm đồ trên chiếc bè. Bombard sợ nhất là bị mất hộp lương thực khẩn cấp đã được niêm phong, ông cần giữ nó đến cuối hành trình để làm bằng chứng cho công an. Đồn công an gần nhất cách đó 3km, nên Bombard phải tìm 3 nhân chứng để xác nhận hộp đó còn nguyên, sau đó ông chia hết chỗ lương thực cho dân bản địa.
Bombard kể lại là sau đó bị chỉ trích vì ông không niêm phong lại nhật kí để chứng minh tính xác thực. Theo ông, có lẽ họ không tưởng tượng được «cảm giác của người bước lên đất liên sau 65 ngày cô đơn lênh đênh trên biển».
Đó thực sự là một kì tích. Chuyến phiêu lưu trên «Kẻ dị giáo» và cuốn sách «Naufrage volontaire» («Tình nguyện đắm tàu») đã mang lại sự nổi tiếng cho Bombard. Nhờ chiến tích của Bombard, năm 1960 Hội nghị An toàn Hàng hải London đã ra quyết định các tàu phải được trang bị bè cứu sinh.
Sau này ông còn có nhiều chuyến đi trên biển khác với các mục đích khác nhau, ông nghiên cứu về chứng say sóng và tính chất diệt khuẩn của nước, chống lại sự ô nhiễm của biển Địa Trung Hải. Nhưng thành quả lớn nhất của cuộc đời bác sĩ Bombard Alain (ông qua đời ngày 19 tháng 7 năm 2005) là lời cảm ơn của hơn 10 nghìn người: «Nếu như không có cuộc thử nghiệm của ông thì chúng tôi đã chết rồi!».