Tôi là kiểu người được ưa thích bởi cả học sinh giỏi, học sinh cá biệt, giáo viên lẫn phụ huynh, là kiểu bạn bè hay nhờ “mày tới nhà tao xin thì tao mới đi chơi được” mỗi khi cả đám muốn đi rong ruổi giữa trưa nắng, nên luôn cảm thấy rất trọn vẹn và đồng cảm với tất cả mọi người… Tôi đã đọc và suy nghĩ khá nhiều từ những năm tiểu học, để có thể cảm nhận được nhiều hơn về những gì mình trải qua và chứng kiến.
Tuổi thơ tôi
Tôi gốc Bắc, nhưng lớn lên ở một vùng nông thôn điển hình của miền Tây cách đây tầm hơn chục năm trước. Bằng một cách kỳ lạ nào đó, đến nay tôi vẫn còn lưu giữ ký ức gần như trọn vẹn về từng ngày một, bắt đầu từ khoảng năm 5 tuổi. Những ký ức không cần phải ấn tượng hay gợi cảm xúc, đơn giản chỉ là những gì đã xảy ra.
Có thể nghĩ về những sự kiện bình thường (như một hôm được mẹ nhờ đi hái lá lốt chẳng hạn, tôi có thể nhớ lại hôm ấy mình đã vừa lười nhác, vừa bực bội, vừa chịu khó lựa từng lá to nhất để ngắt như thế nào) là một khả năng thú vị trong những hôm khó ngủ. Nhưng việc có thể nhớ lại cuộc sống thời thơ ấu của mình dường như hữu dụng hơn khi kết hợp cùng kiến thức ở hiện tại. Những trải nghiệm đầy tính xã hội mà rất có thể nhiều người chưa thực sự trải qua nó.
Thuở ấy tôi thường bị gọi là “bắc kỳ”, bởi cả trẻ con lẫn người lớn. Có người chỉ trêu đùa cho vui miệng, có người dùng nó để gọi như thể đó là tên và có cả bọn tinh nghịch lúc nào cũng sẵn sàng xổ ra cả một bài thơ để chửi rủa bất kể tôi chẳng làm gì. Sự nghiêm túc và những cảm xúc tiêu cực lộ ra một cách không chút giấu diếm phía sau thái độ của nhóm cuối cùng lúc nào cũng khiến tôi khó chịu.
Nhưng nhìn chung cuộc sống của một người gốc Bắc ở vùng nông thôn miền Tây cách đây tầm hơn chục năm trước tương đối dễ dàng. Giáo viên ở trường gần như toàn bộ là người Bắc, những học sinh giỏi nhất trong trường và lớp cũng gốc Bắc, cho đến cả các gia đình khá giả trong vùng cũng đa phần là gốc Bắc. Tôi nghĩ số phận lúc ấy của mình giống như người châu Á ở Mỹ, tuy vẫn chịu nạn phân biệt nhưng được bảo vệ bởi sự tồn tại của những truyền thuyết dạng “luôn có một thằng châu Á giỏi hơn bạn” hay xa hơn là sự hiện diện của hàng loạt tỷ phú, CEO gốc Á khác. Điều tồi tệ nhất có lẽ là không được ưa thích và đôi lúc nó sẽ dẫn đến các rắc rối nguy hiểm, nhưng nhìn chung vẫn tương đối dễ thở.
Những người bạn thuộc các dân tộc khác, cụ thể là các bạn Khmer, thực sự đã chịu đựng một cuộc sống khắc nghiệt hơn nhiều, cùng phép so sánh phía trên, có thể ví hoàn cảnh của họ với cuộc sống của người da đen ở phương Tây. Họ cũng có N-word, tuy không đến mức khó chịu như của người da đen, nhưng danh xưng “người miên” thường là thứ người ngoài nên tránh dùng.
Các cộng đồng người Khmer thường sống thành cụm gọi là sóc, nằm ở xa đường cái, dọc những con đường nhỏ và kênh đào nhỏ. Từ đường cái, rẽ vào những đoạn đường đan (làm từ các tấm đan bê tông) dẫn vào các sóc, nhưng cứ theo đó đi sâu vào trong thì chỉ còn đường đất. Tôi nhớ mình đã từng đi rất xa vào phía trong ấy, nhưng vẫn chưa bắt gặp điểm cuối cùng, và cũng chưa bắt gặp căn nhà cuối cùng. Cứ một đoạn dài tưởng chừng hoang vắng đến mức chẳng còn ai ở nữa, lại xuất hiện một căn nhà tranh xập xệ nằm trơ trọi bơ vơ đến khó hiểu.
Thuở ấy, phần lớn người Khmer đều nghèo. Chẳng biết vì lý do gì (và do ai), nhưng dù xây nhà giữa khoảng đất trống miên man chẳng ai tranh chấp, chỉ một số ít trong số họ có ruộng. Những người còn lại thường đi làm thuê, làm mướn với mức tiền công chỉ vừa đủ sống qua ngày và dường như khả năng “đổi đời” từ khoản thu nhập ấy ở gần con số 0, ngay cả khi cố gắng tích lũy. Đàn ông thì làm cửu vạn, phụ nữ thì làm những phần việc liên quan đến đồng áng (gặt mướn, cấy mướn…). Công việc ở nông thôn thường bấp bênh do phụ thuộc vào mùa vụ, thế nên ngay cả khi đã cần mẫn ai kêu gì làm nấy, họ vẫn có những khoảng nghỉ không mong muốn.
Nếu may mắn, chủ ruộng sẽ cho họ được “mót” lúa chét* để có cái ăn trong một vài tháng nghỉ giữa mùa vụ. Những giúp đỡ này là đáng quý, và có thì đỡ hơn không, nhưng nhìn chung chẳng thay đổi được quá nhiều. Thế nên mặc dù người Khmer vẫn nhận được các giúp đỡ tương tự, so với hoàn cảnh và điều kiện đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của họ, đó chỉ như trái táo cho một cơn bạo bệnh.
*[Lúa chét là loại lúa mọc lên từ gốc những cây lúa đã được gặt để thu hoạch, trong lúc nghỉ giữa vụ. Do đất lúc này đã ít chất dinh dưỡng nên hạt lúa thường đen, lép, tỷ lệ hạt gạo thấp, gạo thường bị hôi. Tuy vậy, gạo lúa chét khá ngọt và ngon].
Việc được cho mót lúa chét hay những giúp đỡ nhỏ nhặt đáng quý khác dường như không tạo ra được nhiều thay đổi tích cực cho cộng đồng người Khmer. Trong lớp học, họ thường rơi vào nhóm học kém nhất. Trong trường học, họ thường là những nhóm học sinh cá biệt nổi tiếng gây phiền hà cho cả học sinh lẫn giáo viên. Trong một cộng đồng dân cư, họ cũng không thường xuất hiện với thế mạnh về cả kinh tế, tài chính lẫn văn hóa. Những hiện tượng này, mặc dù là kết quả của một quá trình bất bình đẳng, lại thường được các nhóm khác xem là nguyên nhân hợp lý để tái thiết các điều kiện bất bình đẳng dành cho nhóm yếu thế.
Thời tiểu học, tôi thuộc nhóm học giỏi nhất trường mà không cần đến quá nhiều nỗ lực. Điều này có thể là hiển nhiên ở một số thành phố lớn, nơi có các trường với gần như toàn bộ học sinh đều là học sinh giỏi, nhưng thật buồn vì ở nơi tôi sống, số học sinh giỏi chỉ chiếm thiểu số ngay cả khi đó chỉ là tiểu học. Giáo viên chưa cần quan tâm đến chuyện sẽ đào tạo ra bao nhiêu học sinh giỏi, mà trước hết phải đảm bảo số học sinh yếu ở mức chấp nhận được và đặc biệt là không được để bọn trẻ chán nản việc học đến mức nghỉ luôn từ những năm tuổi vẫn chưa được hai số.
Năm học lớp 4, lúc ấy nhà trường phát động phong trào “đôi bạn cùng tiến”, tôi được ghép ngồi cạnh với một cậu bạn người Khmer tên là Tính. Lúc ấy cậu có học lực yếu và gặp vấn đề với cả những phép nhân chia đơn giản. Đến cuối năm, cả hai không mất quá nhiều nỗ lực và công sức, nhưng cậu được học lực khá, lần đầu tiên trong lịch sử đi học. Tôi vẫn nhớ cậu đã luôn rất vui khi nhận những kết quả kiểm tra ngày một tốt lên của mình, như thể nó vừa mở ra cơ hội để cậu đổi đời, dù rằng với tôi đó chỉ là những bài kiểm tra vô nghĩa, và việc đến trường chỉ là một dạng công việc thường ngày nhàm chán (đúng, tôi đã có suy nghĩ như thế năm còn học lớp 4). Sau đó vài hôm, mẹ cậu đi bộ từ đường đất, rồi đến đường đan, rồi đến đường cái để mang cho mẹ tôi 4 con gà để cảm ơn vì tôi đã giúp Tính học giỏi hơn. Điều tồi tệ trong những hoàn cảnh này là chúng tôi không thể từ chối sự đền đáp ấy vì nó sẽ tạo ra sự khó xử không cần thiết cho tất cả mọi người. Lối sống nông thôn có những điều luật bất thành văn và những người trong nhóm yếu thế nhất, trớ trêu thay, lại là những người tôn trọng các điều luật này nhất. Những người thường luôn có những định kiến xã hội xấu về người nghèo, tôi dễ dàng nhận ra họ chưa từng tiếp xúc với người nghèo bao giờ.
Tiếp xúc với Tính giúp tôi nhận ra nhiều điều. Những học sinh kém quả thực đã trải qua những cảm giác chẳng mấy dễ chịu khi ngồi trên ghế nhà trường. Họ phải gặm nhấm cảm giác khó chịu của việc không biết một tí gì khi ngồi làm bài kiểm tra và chờ đợi hàng loạt thứ tồi tệ khác sẽ xảy đến vào ngày công bố kết quả của bài kiểm tra ấy. Đó có thể là lời trách móc của giáo viên, là cảm giác tủi hổ với bạn bè xung quanh và sự thất vọng của bố mẹ ở nhà. Thứ cảm giác mà rốt cuộc tôi cũng có cơ hội một lần được chiêm nghiệm, trong một lần ngồi làm bài thi học sinh giỏi cấp khu vực về sau này. Rất nhanh chóng thôi, cảm giác ấy sẽ biến mất, trở thành một thứ gì đó bình thường và người ta rốt cuộc cũng sẽ quen với nó. Để đối phó với cảm giác này và với việc đi học nói chung, người ta sẽ có xu hướng chơi bời nhiều hơn, tránh né việc học, tham gia vào hội những người mà luôn đùa cợt về điểm 1 2 3 4 thay vì cảm thấy buồn phiền hay trách móc lẫn nhau về nó.
Những năm liên tục đạt kết quả kém đã khiến Tính mất kết nối với việc học, tiếp xúc với một môi trường không phục vụ việc học và vấn đề lớn nhất của cậu là luôn bị phân tán bởi những mối bận tâm ngoài chuyện học hành. Cậu hay kể cho tôi nghe về những người anh đã nghỉ học ở trong xóm hay ho như thế nào, về niềm hạnh phúc khi kiếm được mười ngàn nhờ xúc cá lia thia để bán và niềm vui khi đi làm ruộng với ba mẹ… những thứ kiểu kiểu thế. Nhưng khi sự tập trung được dành cho việc học, khi cậu hiểu cách mọi thứ hoạt động, mọi thứ xem chừng đơn giản hơn rất nhiều. Ngoài Tính, tôi vẫn thường giúp đỡ mọi người trong lớp việc học, và tôi nhận ra rằng chẳng ai ngu ngốc cả. Việc học chỉ là một vấn đề rất nhỏ trong cuộc sống đa dạng của họ, trái với việc toàn bộ cuộc sống thời còn bé chỉ xoay quanh học và chơi như tôi, họ phải đối mặt với nhiều chuyện phức tạp khác. Từ những chuyện nhỏ nhặt như con đường đất sẽ trở thành nỗi ác mộng khi trời mưa (đất bùn bám vào dép và vào bánh xe đóng thành từng khối), buổi tối cả nhà chỉ có ánh nến lập lòe để phát sáng (do đường điện chưa kéo đến những sóc quá xa đường cái) cho đến những yếu tố vĩ mô về kinh tế, chính trị, xã hội khác vốn luôn ép chặt họ như những chiếc lồng vô hình.
Tôi là kiểu người được ưa thích bởi cả học sinh giỏi, học sinh cá biệt, giáo viên lẫn phụ huynh, là kiểu bạn bè hay nhờ “mày tới nhà tao xin thì tao mới đi chơi được” mỗi khi cả đám muốn đi rong ruổi giữa trưa nắng, nên luôn cảm thấy rất trọn vẹn và đồng cảm với tất cả mọi người. Tôi cũng có một bạn thân người Khmer khác tên là Yêu, học khá, dáng người to khỏe và rất tốt bụng, khi tôi lên thành phố để học cấp 2, cậu cũng rời trường tiểu học nhưng không phải để học tiếp, mà để đi làm ruộng phụ giúp ba mẹ. “Lao động trẻ em” là cụm từ báo chí vẫn dùng để chỉ hoàn cảnh của Yêu, nhưng trái với những mô tả xót xa trên mặt báo, những người như Yêu thường chấp nhận việc “làm ruộng phụ giúp ba mẹ” một cách hoàn toàn tự nhiên chẳng chút than vãn, như thể đó là một quy luật tất yếu xưa nay vẫn vậy. Đó mới là điều tệ nhất mà hiện thực đã kể lại, vốn không thể tỏ rõ chỉ qua số liệu hay con chữ.
Anh trai tôi cũng là một người hiền lành và học giỏi, có quen thân với một nhóm bạn người Khmer được mệnh danh là “trùm trường” gồm những đứa trẻ có độ tuổi thực lớn hơn 2-3 tuổi so với độ tuổi đi học tiểu học. Họ thường đi “giật đạn” (đi đến chỗ những đứa trẻ khác đang chơi bắn bi trong sân trường để cướp giật) rồi cho anh tôi. Sau một vài lần tiếp xúc, tôi thấy họ cũng bình thường, nếu không muốn nói là có chút gì đó ngây ngô và lành tính. Họ không cần số đạn (bi) giật được từ những đứa trẻ khác, họ chỉ cần cảm giác thích thú khi trở thành kẻ bắt nạt, dù rằng ở bên ngoài khuôn viên của trường tiểu học, họ là những kẻ bị bắt nạt.
Tôi đã đọc và suy nghĩ khá nhiều từ những năm tiểu học, để có thể cảm nhận được nhiều hơn về những gì mình trải qua và chứng kiến. Khi đọc sách vở về bất công xã hội và nỗi đau của các nhóm thiểu số, tôi không hình dung, không tưởng tượng, mà chỉ nhớ lại. Tôi thấy những người cụ thể mình từng gặp, tương ứng với những gì sách vở đã mô tả. Chẳng có nhân vật tưởng tượng nào cả. Tôi đã gặp họ, tiếp xúc với họ, sống với họ và chia sẻ một phần đời người, đủ nhiều để biết rằng xã hội đã nói gì đúng, và nói gì sai về hoàn cảnh của họ. Như truyện của Nguyễn Ngọc Tư, tôi khá thích, nhưng phần nào đó nó vẫn mang dáng vẻ “poverty p*rn” ngay cả khi tác giả đã có thiện ý luôn cố tránh né nó, và có lẽ người miền Tây sẽ không thực sự thích đọc chúng cho lắm.
Cuộc sống nông thôn còn tồn đọng nhiều vấn đề khác hơn là chỉ khoảng cách kinh tế hay vị thế chính trị của các nhóm dân cư khác nhau. Có những thứ khá buồn cười, như sự lặp đi lặp lại của các cuộc hội thoại mọi người tham gia vào. Bạn sống ở đó một thời gian và sẽ thấy những câu chuyện mọi người nói với nhau lặp đi lặp lại một cách khó chịu, như thể một người đã kể một câu chuyện với nhiều người tới mức họ không biết họ đã kể với người này chưa, thế nên họ đành kể lại, và người nghe kể cũng không cảm thấy phiền gì với việc đó. Ngày này qua tháng nọ, năm nay qua năm khác, cảm giác không khí ấy như một vùng đất đã bị bỏ quên trong một tựa game phiêu lưu nào đó, nơi những NPC chỉ có một lượng rất hạn chế câu thoại cho cốt truyện của mình.
Giới hạn về thông tin, về bối cảnh và hàng loạt thứ khác khiến mọi người khó lòng bứt ra khỏi những câu chuyện nhỏ nhặt thường ngày. Vì vậy, người ta thường bị hấp dẫn và cảm thấy bất ngờ trước những câu chuyện mang màu sắc tâm linh, thần bí và khác lạ. Họ còn bị thôi thúc trong việc trở thành người kể chuyện để lan truyền nó cho những người khác. Vì thế, chẳng có gì khó hiểu khi nông thôn ở Việt Nam thường là những vùng đất bị nhuốm màu tâm linh tôn giáo sâu sắc, đan xen cùng những câu chuyện đời sống thường nhật lặp đi lặp lại, chỉ thỉnh thoảng mới lộ ra một vài cá nhân quan tâm chính trị xã hội thể thao bóng bánh, nhưng kiến thức thu nhặt được từ những tờ báo giấy cùng vài lời bình luận nửa vời ở các quán cà phê đầu chợ rốt cuộc chỉ đem đến tác động tiêu cực, hơn là sự thông tuệ.
Cấp hai, tôi rời quê để học ở trường top đầu của tỉnh, rồi cấp ba là trường chuyên, thỉnh thoảng mới lại về nhà. Hòa nhập vào những bối cảnh xã hội mới, tôi không nhận ra bất kỳ điều gì ưu việt hay vượt trội so với vùng đất cũ. Chỉ là một nơi mới với những vấn đề mới. Tôi vẫn gặp những người khổ sở với vị thế của mình dù họ đã ở hoàn cảnh vượt trội hơn hẳn người người tôi từng gặp khi còn bé. Và nỗi đau, hay những thứ khác về cảm xúc, là như nhau. Bất kể bạn cảm thấy bất lực khi ngồi làm bài kiểm tra ở trường làng hay ở trường chuyên, cảm xúc vẫn là như nhau. Sẽ thật tuyệt nếu những người này đồng cảm được với nhau, thì vì ganh tỵ ghét bỏ nhau, tôi nghĩ.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn cảm thấy buồn nôn khi đọc được những bài viết nói về bất công xã hội, phân biệt đối xử từ những “trí thức thành thị” hay người nổi tiếng vốn chỉ biết về thực tế xã hội thông qua truyện kể. Họ nói về bất công như thể thứ gì đó không tồn tại, như thể một thứ được tô vẽ ra với mục đích chỉ nhằm khiến họ cảm thấy tệ, và trật tự hiện tại là kết quả của tất cả mọi thứ nên ắt hẳn nó phải hợp lý. Họ tuyên bố chắc nịch về thế giới chỉ dựa trên kinh nghiệm sống ít ỏi của mình, mà bỏ qua phần mênh mông vô tận trải nghiệm từ những người khác. Điều này không những thảm hại với riêng họ, còn gây hại đến rất nhiều người khác.
Những người yếu thế cũng chịu tác động mạnh bởi truyện kể. Họ tin những kẻ lừa đảo dù chẳng có gì khó để nhận ra thông qua logic căn bản. Ngay cả khi bọn lừa đảo cũ đã bị lật tẩy, khi câu chuyện ấy lặp lại, họ vẫn lại tin vào nó một lần nữa. Những câu chuyện phản khoa học dạng “tôi có người bác bị ung thư không khỏi, đi gặp ông thầy này mà hết”, “tôi có quen ông thầy bói giỏi lắm, hữu duyên mới gặp, có thể giúp giải được kiếp nạn này”… đã ăn sâu vào cuộc sống người dân nông thôn Việt Nam đến mức đáng báo động. Đến mức bạn sẽ hoài nghi rằng vì sao tôi lại nói rằng đó là lừa đảo, dù kết luận này hiển nhiên như thể 1+1=2. Đến mức ngay cả khi hàng loạt người đã bị bóc mẽ là lừa đảo, vẫn sẽ có người bảo với bạn rằng “đó là thầy dởm, là bọn lừa đảo, còn luôn có một ông thầy giỏi bạn chưa từng gặp”.
Tôi đã từng thấy những người bác sĩ bị ảnh hưởng bởi chuyện kể đến mức tin vào một câu chuyện nhảm nhí của những người thiếu chuyên môn (nhưng đông đảo) và đi thực hiện sinh trắc vân tay cho con cái của mình. Tôi đã từng thấy những gia đình vay nợ khắp nơi, bán trâu bán bò để rồi bị lừa bởi lang băm và thầy bói. Tôi đã từng thấy gia đình tán gia bại sản, vợ chồng ly tán, dòng họ lục đục chỉ vì tin vào những lời bói toán nhảm nhí.
Chúng là những câu chuyện có thật, được tạo ra từ những chuyện kể bịa đặt.
Sự mạnh mẽ của các câu chuyện đã khiến tôi bất lực trước việc chúng tác động đến bạn bè, người thân của mình nhiều hơn cả sự chân thành từ những người tốt và hiểu biết. Đôi lúc chúng ta cần thay đổi những thứ vĩ mô để tác động đến các vấn đề vi mô, tôi nghĩ. Đôi lúc ta cần thay đổi cả xã hội, để có thể giúp đỡ những người bên cạnh mình. Những cuộc nói chuyện thẳng thắn rồi sẽ trở thành tranh cãi và đâu lại vào đó, chỉ khi phá đi những chiếc lồng vô hình, mọi người mới thực sự thoát ra và trở nên tự do dựa trên chính ý chí của mình. Họ xứng đáng được trải nghiệm cảm giác tự mình làm chủ số phận, thay vì việc được cho mót lúa chét, được thương cảm qua truyện của Nguyễn Ngọc Tư hay được cho bất kỳ “trái táo” nào khác.
Đây là lý do tôi tin vào khoa học, và sức mạnh của tri thức, về việc theo đuổi những giá trị tốt đẹp cho xã hội.
Những đứa trẻ của Pornhub
"Những đứa trẻ của Pornhub" vượt rất xa khỏi cái khuôn khổ op-ed (kiểu Góc nhìn hay Kính đa tròng),...
Read moreDetailsDe Rossi và cái kết đẹp cùng AS Roma
De Rossi và cái kết đẹp cùng AS Roma, một bài viết ngắn đầy ý nghĩa của tác giả Vũ Trung...
Read moreDetailsReview phim Man On Fire: “Ta được thuê để bảo vệ cháu, không phải làm bạn với cháu”
"Ta được thuê để bảo vệ cháu, không phải làm bạn với cháu" - Vệ sỹ John Creasy nói với...
Read moreDetailsReview phim Định mệnh (The Poanist 2002): có những số phận được quyết định bởi sự tình cờ ngoài mọi toan tính
Bài viết review nội dung bộ phim The Pianist (2002). Phim được giải Oscar về đạo diễn xuất sắc nhất...
Read moreDetails–
TẠP CHÍ MENBACK