Tóm tắt nhanh lịch sử Ai Cập – đất nước có nền văn minh phát triển rực rỡ nhất, lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại.
Ai Cập cổ đại là một trong những cái nôi đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử biến động và thăng trầm, được sự ưu ái của mẹ thiên nhiên, Ai Cập đã trở thành một tặng phẩm mà sông Nin ban tặng cho con người với nền văn hóa rực rỡ. Không chỉ dừng lại ở đó, lịch sử Ai Cập còn thôi thúc trí tò mò của con người bởi những điều bí ẩn chứa đựng bên trong nó. Thông qua bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau khám phá lịch sử thú vị của Ai Cập.
Vào khoảng sau thiên niên kỷ 6 trước Công Nguyên (TCN), do sự phát triển của lực lượng sản xuất, các công xã nông thôn đã liên hiệp thành những nhà nước nhỏ đầu tiên trên lãnh thổ Ai Cập gọi là Châu. Dần dần, những Châu đó hợp lại hình thành hai vùng Hạ và Thượng. Từ đó cho đến năm 525 trước Công Nguyên, theo cách phân chia của Manêtông, tác giả sách Lịch sử Ai Cập, sống vào thế kỉ III trước Công Nguyên. Lịch sử Ai Cập cổ đại được chia thành 5 thời kì là Tảo vương quốc, Cổ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc và Hậu kỳ vương quốc gồm tất cả 31 vương triều.
Thời kỳ Tảo Vương quốc (khoảng 3050 TCN – 2686 TCN)
Khoảng thời gian từ khi thống nhất Ai Cập đến khoảng năm 2686 TCN được lịch sử gọi là Tảo Vương quốc. Khoảng năm 3150 TCN, pharaoh Narmer, thường được gọi là Menes đã thống nhất hai miền Ai Cập, mở đầu cho sự hình thành của một nhà nước cổ đại thống nhất trong lãnh thổ. Trong thời kỳ này, vua Menes đã xây dựng thành phố Memphis lớn nhất thế giới lúc bấy giờ Vương triều thứ nhất có 7-9 đời vua và tồn tại được khoảng 300 năm. Các vua thời này cũng thường ra sức mở mang lãnh thổ. Như Menes đánh Libya, Djer chiếm đất Sudan, Den và Semerkhet đánh chiếm bán đảo Sinai.
Thời kỳ Cổ Vương quốc (2686 TCN – 2181 TCN)
Vào thời kỳ Cổ Vương quốc (2686 TCN – 2181 TCN), Ai Cập dưới sự lãnh đạo của chính quyền trung ương đã đạt được nhiều thành tựu về kiến trúc, nghệ thuật và công nghệ. Khoảng năm 2650 TCN, Djoser ra lệnh cho Imhotep xây dựng kim tự tháp bậc thang đầu tiên ở Saqqara. Năm 2550 TCN Khufu, Khafre và Menkaure xây dựng ba Kim tự tháp khổng lồ ở Giza.
Năm 2490 TCN tín ngưỡng thờ thần Ra bắt đầu mở rộng. Sau đó, Chế độ hoàng quyền suy yếu cộng với nạn hạn hán nghiêm trọng từ giữa năm 2200 tới năm 2150 TCN đã khiến cho đất nước Ai Cập rơi vào giai đoạn hỗn loạn và suy yếu suốt 140 năm. Khoảng năm 2180 TCN, khi quyền lực của Pharaoh dần suy yếu, các thống đốc bang được bổ nhiệm trước đó ở vùng Thượng Ai Cập đã bắt đầu bước lên vũ đài chính trị.
Khoảng năm 2160 trước Công nguyên, các vị vua ở Heracleopolis đã kiểm soát Hạ Ai Cập, gia tộc Intef nắm quyền kiểm soát vùng Thượng Ai Cập.
Thời kỳ Trung Vương quốc (2134 TCN – 1690 TCN)
Đến khoảng năm 2055 trước Công nguyên, phe Thebes dưới quyền Nebhepetre Mentuhotep II cuối cùng đã đánh bại các vị vua Heracleopolis, thống nhất hai vùng đất và mở ra một thời kỳ phục hưng kinh tế và văn hóa được gọi là thời Trung Vương quốc.
Khoảng những năm 1950 TCN Pharaoh Sesostris I bắt đầu cho nô lệ tiến hành khai thác mỏ đồng ở Sinai để làm giàu cho kinh tế vương quốc. Đến năm 1800 TCN dưới thời Pharaoh Amenemhat III, người Ai Cập đã phát hiện ra ốc đảo Fayoum.
Đến năm 1785 TCN, khi sức mạnh của các Pharaoh thời Trung Vương quốc suy yếu, những cư dân châu Á sinh sống tại thành Avaris ở miền đông vùng đồng bằng châu thổ Ai Cập đã nắm quyền kiểm soát khu vực này và buộc chính quyền trung ương phải rút lui về Thebes. Cuối cùng họ đã chiếm lấy quyền lực ở Ai Cập và được biết đến với tên gọi là người Hyksos.
Năm 1650 TCN, người Hyksos thiết lập vương triều dị tộc đầu tiên trong lịch sử Ai Cập và cũng bắt chước mô hình của chính quyền cũ, tự xưng là pharaoh. Năm 1570 TCN, chính quyền tại Thebes đã tập hợp đủ sức mạnh để có thể đánh bại người Hyksos.
Thời kỳ Tân Vương quốc (1549 TCN – 1069 TCN)
Năm 1555 TCN, hai vị Pharaoh Seqenenre Tao II và Kamose cuối cùng đã đánh bại người Nubia – đồng minh của người Hyksos ở phía nam, nhưng phải tới khi người kế vị của Kamose là Ahmose I lên ngôi, họ mới thành công trong việc loại trừ sự hiện diện của dân Hyksos ở Ai Cập và thiết lập thời kỳ Tân vương quốc.
Các vị pharaon thời Tân Vương quốc đã thiết lập nên một thời kỳ thịnh vượng chưa từng có bằng cách củng cố chắc chắn biên giới và tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng Mitanni, Assyria. Thutmosis I – vị pharaoh thứ ba của Vương triều thứ 18 sau khi lên ngôi năm 1506 TCN đã mang quân đích thân tham gia vào trận chiến và tự tay giết chết vị vua Nubia.
Sau chiến dịch đó, ông tiếp tục lãnh đạo một cuộc viễn chinh lần thứ hai ở Nubia và ra lệnh nạo vét con kênh ở thác nước thứ nhất nhằm tạo điều kiện đi lại dễ dàng hơn tới thượng nguồn sông Nile từ Ai Cập đến Nubia. Điều này đã giúp hợp nhất Nubia vào đế chế Ai Cập.
Thutmosis III sau khi lên ngôi năm 1479 TCN đã tiến hành kế hoạch hủy hoại nền tảng quyền lực ở vùng Cận Đông bởi lo sợ một lần nữa bị ngoại tộc đô hộ. Lúc bấy giờ, tại vùng Cận Đông, các thân vương Syria đã tụ hợp thành một liên minh đứng đầu là Kadesh, âm mưu xâm lược Ai Cập.
Thutmosis III đã thực hiện cuộc viễn chinh thứ nhất, đụng độ trực tiếp với liên minh này tại trận Megiddo rồi giành chiến thắng sau đó vài tháng. Đến năm 1460 TCN Thutmosis III đã thực hiện nhiều cuộc hành quân đến châu Á.
Trong chiến dịch thứ 8 diễn ra vào năm thứ 33, Thutmosis đã tiến quân tới tận sông Euphrates – một địa điểm nằm sâu trong lãnh thổ của vương quốc Mitanni và có một cuộc chiến lớn tại pháo đài Karkemiš. Như vậy, các chiến dịch quân sự được tiến hành dưới triều đại Thutmosis I và Thutmosis III – đã tạo nên một đế quốc Ai Cập lớn chưa từng thấy, trải dài từ Niya ở tây bắc Syria đến tận Nubia.
1360 TCN, Amenhotep IV lên ngôi và tiến hành một loạt các cải cách hỗn loạn. Ông đã đổi tên thành Akhenaten và đưa vị thần mặt trời trước đó ít người biết đến là Aten trở thành vị thần tối cao, di chuyển kinh đô tới thành phố mới Akhetaten (ngày nay là Amarna). Sau này, các Pharaoh Tutankhamun, Ay và Horemheb đã tiến hành xóa bỏ tất cả những gì đề cập đến vua Akhenaten.
Đến mùa xuân năm 1301 TCN, Ramesses đã thực hiện nhưng cuộc chiến nhằm chinh phục lại những vùng đất ở trung tâm Syria giờ đây đang nằm trong tay người Hittite. Đứng trước tình hình đó, để giữ vững vị trí của mình, đế quốc Hittite đã nhanh chóng chuẩn bị ứng chiến.
Khoảng năm 1279 TCN, Ramesses Đại đế lên ngôi đã lãnh đạo nhân dân Ai Cập chống lại người Hittite trong trận Kadesh (tại Syria ngày nay) và sau một cuộc chiến tranh bất phân thắng bại, hai bên đã đồng ý ký kết hiệp ước hòa bình đầu tiên vào khoảng năm 1258 TCN. Tuy nhiên đến năm 1220 TCN, sự giàu có của Ai Cập đã khiến cho nó trở thành một mục tiêu hấp dẫn cho các cuộc xâm lược, đặc biệt bởi người Berber Libya từ phía tây, và các dân tộc vùng biển.
Đến năm 1175 TCN, Ramesses III đã đánh tan liên minh người miền biển song đến cuối cùng, Ai Cập đã đánh mất quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ còn lại của mình ở miền nam Canaan, phần lớn rơi vào tay của người Assyria.
Đến năm 1130 TCN, sau khi giành lại quyền lực của mình, các đại tư tế Amun ở Thebes đã nắm trong tay những vùng đất rộng lớn và giàu có, và mở rộng quyền lực của họ ra khắp đất nước trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba.
Năm 1078 TCN, Smendes đã trở thành Pharaoh cai trị phần phía bắc của Ai Cập, đóng đô ở Tanis. Miền nam vẫn nằm dưới sự kiểm soát của các đại tư tế Amun ở Thebes và họ chỉ công nhận Smendes trên danh nghĩa. Trong thời gian này, các bộ lạc Berber đến từ Libya bắt đầu gia tăng quyền tự chủ của họ, nắm quyền kiểm soát Ai Cập.
Vào năm 853 TCN, Pharaon Osorkon II đã nỗ lực liên minh với nhiều quốc gia khác, tham gia vào trận Karkar nhằm chống lại Assyria hùng mạnh đồng thời lấy lại địa vị ở Tây Á. Tuy nhiên, liên minh này đã thất bại và đế quốc Tân Assyria tiếp tục thống trị Tây Á.
Năm 727 TCN, vua Piye người Kush ở Nubia đã chiếm được Thebes rồi thống nhất 2 miền Bắc và Nam Ai Cập, trở thành Pharaoh của vương triều thứ 25. Năm 720 TCN, ông phái một đội quân đến hỗ trợ một cuộc khởi nghĩa chống lại Assyria, đang xảy ra tại Philistia và Gaza. Tuy nhiên, Piye đã bị Sargon II – vua của Tân Assyria lúc bấy giờ đánh bại và cuộc khởi nghĩa bị đàn áp.
Năm 711 TCN, Piye lại ủng hộ một cuộc khởi nghĩa khác của người Do Thái ở Ashdod chống lại người Assyria và lại một lần nữa bị đánh bại. Sau đó, Piye đã buộc phải từ bỏ mục tiêu mở rộng ảnh hưởng ở vùng Cận Đông.
Thời kỳ hậu nguyên (672 TCN – 332 TCN)
Trong suốt thế kỷ 7 TCN sau đó, nhằm giành quyền kiểm soát Ai Cập, những thế lực của Assyria và Nubia đã tiến hành những cuộc xâm lược xâu xé lãnh thổ quốc gia này. Vào năm 653 TCN, vua Saite Psamtik I đã lợi dụng thời điểm Assyria đang tham gia vào một cuộc chiến tranh khốc liệt nhằm chinh phục Elam giành lại độc lập cho Ai Cập Sự phục hồi ngắn ngủi của những triều đại sau đó dường như đã kết thúc vào năm 525 TCN, khi người Ba Tư hùng mạnh dưới sự chỉ huy của Cambyses II đã bắt sống Pharaoh Psamtik III và đánh bại Ai Cập tại trận Pelusium.
Sau khi bị sáp nhập vào đế quốc Ba Tư, Ai Cập cùng với đảo Síp và Phoenicia (Lebanon ngày nay) đều là thuộc địa của Đế quốc Achaemenid. Như vậy, Ai Cập đã trở thành một phần lãnh thổ của Ba Tư cổ đại.
Tuy nhiên sau đó, người Ai Cập đã khôi phục được độc lập trong 61 năm (404 TCN – 343 TCN) rồi bị Ba Tư đô hộ lần thứ hai (343 TCN – 332 TCN).
Thời kỳ Ai Cập thuộc Hy Lạp
Thời kỳ Ai Cập thuộc Hy Lạp bắt đầu từ năm 332 TCN, khi Alexander đại đế đánh chiếm Ai Cập mà không vấp phải một sự phản kháng nào. Đến năm 305 TCN, Ptolemy I lên nắm quyền, thiết lập vương triều Ptolemaeus và mở ra một triều đại cai trị nói tiếng Hy Lạp tồn tại gần 3 thế kỷ trên lãnh thổ Ai Cập, đặt trung tâm tại Alexandria.
Thời kỳ Ai Cập thuộc La Mã
Vào tháng 9/31 TCN, nữ hoàng Cleopatra – nhà cai trị cuối cùng của nhà Ptolemaeus đã thất bại trước Octavian (sau này là Hoàng đế Augustus) trong trận Actium. Ai Cập chính thức trở thành một tỉnh của La Mã từ đây.
Dưới sự cai trị của La Mã, từ thế kỉ 1, Kitô giáo bắt đầu bén rễ ở Ai Cập. Điều này dẫn đến những cuộc đàn áp những người cải đạo sang Kitô giáo, mà đỉnh cao là cuộc đại thanh trừng của Diocletianus bắt đầu vào năm 303, nhưng cuối cùng Kitô giáo đã thắng thế vào năm 391, khi hoàng đế Theodosius ban pháp lệnh nghiêm cấm các nghi thức thờ cúng đa thần giáo và đóng cửa các ngôi đền.
Năm 639, vị khalip thứ nhì của Hồi quốc là Umar đã phái tướng Amr ibn al-As đưa quân đánh Ai Cập. Đến năm 640, sau khi có thêm viện binh, đoàn quân này đã đánh bại quân Byzantine ở trận Heliopolis.
Sau khi chiếm được đồn Babylon ở châu thổ sông Nile vào tháng 4/641, ông lập trại quân Fostat năm 643 bên cạnh đồn này để kiểm soát các vùng đất đã chiếm được. Alexandria bị Đông La Mã tái chiếm năm 645 nhưng bị Amr lấy lại năm 646.
Thời kỳ Ai Cập thuộc Ả Rập
Năm 654, hoàng đế Đông La Mã Constans II phái hạm đội đi tái chiếm Ai Cập nhưng đã thất bại nhanh chóng. Từ đó, Ai Cập đã trở thành một phần lãnh thổ của Ả Rập rồi dần bị đồng hóa. Tiếng Ả Rập được dùng ngày càng phổ biến, và đến năm 706 thì trở thành ngôn ngữ chính thức tại Ai Cập tới ngày nay.
Vào thế kỷ 9, chính quyền trung ương nhà Abbas ở Baghdad bị sự tranh chấp phe đảng trong triều làm suy yếu. Năm 868, Ahmad ibn Tulun – người tộc Thổ Nhĩ Kỳ được bổ nhiệm đến làm tổng đốc Ai Cập. Lợi dụng tình hình rối ren của chính quyền Abbas, Ahmad ibn Tulun đã đem quân đánh đất Palestine và Syria rồi chiếm được các vùng này năm 878.
Như vậy nhà Tulunid được lịch sử công nhận là triều đại độc lập đầu tiên của người Ai Cập thoát khỏi sự thống trị của người Ả Rập và tồn tại từ năm 868 đến năm 905.
Sau nhà Tulunid, Ai Cập lại trực thuộc đế quốc Ả Rập thêm 30 năm (905 – 935). Khi đế quốc này suy yếu lần nữa thì Ai Cập bước sang thời kỳ tự chủ với nhà Ikhshidid.
Trong khi đó, nhà Fatima – một Triều đại khalip theo Hồi giáo đã bắt đầu tại Tunisia từ năm 910. Đến năm 969, khi nhà Ikhshidid suy yếu, họ đã lập tức đánh chiếm Ai Cập và dời đô về thành phố Cairo.
Tiếp sau triều đại nhà Fatima từ năm 1171 đến năm 1517, Ai Cập lần lượt bị cai trị bởi nhà Ayyubid và nhà Mamluk của người Hồi giáo.
Thời kỳ Ai Cập thuộc Ottoman
Trong những năm 1515-1517, sultan của đế quốc Ottoman – Selim I (1512-1520) đã tiến hành xâm lược vùng Trung Đông. Năm 1517 ông ta đánh bại được nhà Mamluk ở Ai Cập rồi xử tử sultan Tuman bay II. Sau đó, Selim I cử Khayer Pasha làm tỉnh trưởng Ai Cập.
Đến tháng 3/1798, khi Ai Cập vẫn đang là một tỉnh thuộc Ottoman, Napoléon Bonaparte tiến hành một cuộc viễn chinh quân sự để đoạt lấy vùng đất này.
Vào lúc đầu của chiến dịch, cuộc viễn chinh của Bonaparte chiếm được Malta và đổ bộ thành công vào Alexandria. Tuy nhiên, Pháp đã nhận lấy thất bại vào 9/1801 trước đội quân của Ottoman.
Ai Cập luôn được xem là một tỉnh khó trị của đế quốc Ottoman. Vào năm 1805, khi tướng Muhammad Ali Pasha được phong làm tổng đốc Ai Cập, ông đã bắt đầu cai trị vùng đất này như một giang sơn riêng của mình.
Kể từ năm 1808, Muhammad Ali bắt đầu chương trình mua lại đất từ các tư nhân trong khắp Ai Cập. Đến năm 1811, dưới lệnh của vua Thổ, Muhammad Ali đã sai quân đi đánh người Saudi và thành công chiếm được thành phố Medina, tiếp đó là vùng Jeddah và Mecca.
Tháng 2/1820, Muhammad Ali sai quân đánh đông bộ Libya, lấy được ốc đảo Siwa. Cùng năm này, ông đã đem quân đi xâm lược Sudan. Đoàn quân rời Cairo vào tháng 7, nhanh chóng chiếm được Nubia, đánh bại người Ả Rập Shagia phía nam tỉnh Dongola, phá được tàn quân Mamluk, và chiếm được đất Sennar ở trung bộ Sudan mà không phải đánh trận nào.
Đến năm 1821 quân Ai Cập đã thất bại trước tướng Mohammed Bey. Tuy vậy, lúc bấy giờ người Ai Cập cũng kiểm soát thêm được hai hải cảng của Biển Đỏ là Suakin và Massawa.
Trong cuộc chiến tranh Hy Lạp – Ottoman (1824 – 1828), Ai Cập đã cử viện binh giúp đỡ với điều kiện người Thổ phải giao cho họ đảo Cộng hòa Síp, đảo Crete, bán đảo Peloponnesus ở miền nam Hy Lạp và đất Syria.
Cuối năm 1827, khi cuộc khởi nghĩa của người Hy Lạp đã sắp bị dập tắt thì quân ba nước đế quốc Anh, Pháp, Nga đến ứng cứu kịp thời. Ngày 20/10/1827, tại trận Navarino trên biển, liên quân Ai Cập-Ottoman bị liên quân Nga-Anh-Pháp đánh cho đại bại. Sau đó, Theo hòa ước do người Anh đề nghị, Ai Cập sẽ vẫn được sở hữu đảo Crete.
Đến năm 1831, lợi dùng tình hình nhà Ottoman đang dần suy yếu, quân Ai cập nổi loạn, mở đầu cuộc chiến tranh với người Thổ lần thứ nhất. Ngày 15/7/1840, các đế quốc Anh, Áo-Hung, Nga, Phổ ký Thỏa ước Luân Đôn, công nhận gia đình Muhammad Ali được truyền đời cai trị Ai Cập và Sudan, nhưng phải rút khỏi Syria và Liban. Muhammad Ali không chấp nhận thỏa ước này nên hải quân Anh và Áo-Hung bèn phong tỏa bờ biển châu thổ sông Nile, dội pháo vào Beirut.
Đến tháng 11/1840, Muhammad Ali buộc phải chấp nhận thỏa ước Luân Đôn rồi rút quân khỏi đảo Crete và miền Hedjaz.
Như vậy, trên thực tế, sự cai trị của nhà Muhammad đối với Ai Cập hoàn toàn không trọn vẹn bởi vùng lãnh thổ này trên danh nghĩa vẫn là một tỉnh của đế quốc Ottoman.
Ai Cập thuộc bảo hộ của đế quốc Anh
Đến năm 1882, quân Anh đổ bộ Ai Cập qua các thành phố Port Said, Suez và Ismailia bên kênh Suez. Người Ai Cập đánh lui được quân Anh tại trận Kafr-el-Dawwar, nhưng lại bị thua tại trận đánh quyết định Tel el-Kebir cùng năm.
Cũng trong thời gian này, đế quốc Pháp bành trướng thành đế quốc có lãnh thổ rộng lớn nhất châu Phi nên họ muốn được người Anh nhượng quyền tại Sudan và Ai Cập.
Năm 1898, Pháp đưa quân đến Fashoda và quân Anh luôn ở trong trạng thái sẵn sàng giao chiến. Tuy nhiên không có cuộc chiến nào xảy ra bởi Pháp đã rút lui.
Tuy chiếm được Ai Cập song Anh vẫn công nhận Ai Cập là một vùng đất thuộc Ottoman trong những công văn của mình. Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, Ottoman đã tham gia vào phe Liên minh chống lại Anh. Điều đó đã khiến người Anh ngay lập tức tuyên bố Ai Cập là đất thuộc bảo hộ của mình.
Sau khi chiến tranh kết thúc, phong trào yêu nước của nhân dân tăng cao đã dẫn tới cuộc cách mạng Ai Cập năm 8/3/1919. Dưới sự đấu tranh quyết liệt của người Ai Cập, đến ngày 22/2/1922, Anh buộc phải tuyên bố độc lập cho quốc gia này.
Tuy mang tiếng là độc lập song quân Anh vẫn trấn giữ kênh Suez, Sudan và các thuộc địa khác và chưa rút khỏi Ai Cập. Mãi đến năm 1936, khi hiến pháp được tái lập, Mustafa el-Nahhas lên làm thủ tướng thì quân Anh mới rút hết khỏi Ai Cập, chỉ còn đóng ở vùng kênh đào Suez.
Khi Thế chiến thứ 2 manh nha bùng nổ, người Anh lại một lần nữa mượn đất Ai Cập thành lập “Quân khu Trung Đông” có trụ sở tại Cairo vào năm 1939 nhằm biến nơi đây thành căn cứ chống lại phe phát xít ở Bắc Phi.
Từ ngày 9 – 16/9/1940, quân Ý xâm chiếm Ai Cập, nhưng bị liên quân Anh – Pháp đánh bại. Tháng 1/1945, Ahmad Mahir Pasha nhân danh Ai Cập tuyên chiến với Đức và Nhật. Sau chiến tranh, dưới ảnh hưởng của phong trào dân chủ từ Châu Âu, người Ai Cập đã thành lập những đảng phái chính trị của riêng mình.
Nhà nước cộng hòa Ai Cập ra đời (1953)
Năm 1948 đại tá Gamal Abdel Nasser tổ chức Phong trào Công chức Tự do nhằm lật đổ hoàng gia và đuổi các cố vấn Anh ra khỏi Ai Cập. Đến ngày 18/6/1953, cuộc đảo chính thành công, chế độ quân chủ đã bị bãi bỏ dẫn tới sự ra đời của nhà nước cộng hòa Ai Cập. Nhà Muhammad Ali chính thức kết thúc vai trò của mình đối với lịch sử Ai Cập.
Như vậy, qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài hàng ngàn năm, có thể khẳng định rằng Ai Cập là một quốc gia có nền văn minh phát triển rực rỡ nhất, lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại. Ai Cập đã để lại trong kho tàng lịch sử văn minh loài người một dấu ấn không thể trộn lẫn.
Ai Cập ngày nay
- Tên chính thức: nước Cộng hòa Ả Rập Ai Cập
- Thủ đô: Cairo (cũng là thành phố lớn nhất)
- Ngôn ngữ chính thức: Tiếng Ả Rập
- Tôn giáo chính: Hồi giáo
- Tên dân cư: Người Ai Cập
- Diện tích: 1.010.407,87 km2 (toàn bộ)
- Dân số: 102,674,145 (2021)
- GDP (danh nghĩa): 394,284 tỷ USD (2021)
- Thu nhập bình quân đầu người (danh nghĩa): 3,832 USD (2021)
- Đơn vị tiền tệ: Bảng Ai Cập (E£) (EGP)
- Múi giờ: UTC+2[c] (EET)
- Mã điện thoại: +20