Tìm hiểu lịch sử về đế quốc Ottoman, một trong những đế chế hùng mạnh và lâu dài nhất trong lịch sử thế giới.
Đế chế Ottoman, đế chế được tạo nên bởi các bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ ở Tiểu Á, đã phát triển trở thành một trong những đế quốc hùng mạnh nhất thế giới trong thế kỷ 15 và 16. Đế chế Ottoman kéo dài hơn 600 năm cho đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất và hoàn toàn kết thúc vào năm 1922. Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ và một số quốc gia khác kế vị đế chế này ở đông nam châu Âu và Trung Đông. Quá trình hình thành và phát triển của đế chế hùng mạnh này chắc chắn sẽ mang lại nhiều hiểu biết thú vị cho chúng ta.
Nguồn gốc của đế chế Ottoman
Tổ tiên của đế chế Ottoman hùng mạnh là một phần bộ lạc du mục người Tây Đột Quyết (Gokturk), vì không chịu sống dưới ách cai trị của nhà Đường nên đã di cư đến lãnh thổ Ba Tư và khu vực tiểu Á vào khoảng thế kỉ X. Bởi mang dòng máu của người Đột Quyết – tộc người gắn liền với những cuộc chinh phạt, xâm chiếm đất đai nên bộ tộc này đã mở rộng đến vùng phía tây tới Armenia và Tiểu Á vào đầu thế kỷ 11.
Quá trình bành trướng đó đã khiến họ nảy sinh những mâu thuẫn với đế quốc Byzantine – còn được biết đến với tên gọi là đế quốc Đông La Mã. Kết quả của những mâu thuẫn này dường như đã ngã ngũ kể từ sau năm 1071, với chiến thắng lịch sử tại trận Manzikert, Đông La Mã đại bại, họ đã tạo nên một đế quốc Seljuk hùng mạnh và là tiền thân của Ottoman ở vùng Tiểu Á.
Vào năm 1243, bởi sự xâm chiếm của Mông cổ – đế chế hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ, Seljuk nhanh chóng bị đánh bại và phân chia thành các vương quốc nhỏ gọi là beylik. Một thủ lĩnh người Kayi là Ertuğrul Gazi đã nhận được vùng đất miền Tây Seljuk trong một cuộc va chạm biên giới nhỏ, đồng thời được sự cho phép và bảo vệ của Seljuk, thủ lĩnh này đã hợp tác với một số dân tộc khác xây dựng lực lượng quân sự, phát triển sức mạnh nội tại của bộ tộc rồi xây dựng một đế chế cho riêng mình.
Nền móng đầu tiên của đế quốc Ottoman
Khi Ertuğrul Gazi qua đời năm 1281, Osman – con trai của ông đã trở thành người kế nhiệm. Ngay sau đó, vào năm 1299, Osman tuyên bố mình là một Sultan – vị vua đầu tiên và thành lập triều đại Ottoman. Triều đại Osman I đánh dấu sự khởi đầu chính thức của đế chế Ottoman kéo dài trong 6 thế kỷ.
Trong khi những vương quốc khác còn bận tâm tới việc xử lý những mâu thuẫn nội bộ, Osman I đã mở rộng lãnh thổ của Ottoman đến tận rìa của đế quốc Đông La Mã. Năm 1326, sau khi Osman mất con trai ông – Orhan lên ngôi và dời đô đến Bursa, mở đầu triều đại Orhan I và định hình sự phát triển chính trị ban đầu của dân tộc.
Trong khi những triều đại khác trên thế giới lúc bấy giờ ra sức cai trị lãnh thổ bằng lối cai trị theo kiểu quân sự thì Ottoman lại đi ngược lại điều đó. Với hệ thống cai trị khác biệt – tránh sự cai trị theo kiểu quân sự, triều đình tạo ra một hệ thống pháp lý theo kiểu tự trị. Theo đó, các dân tộc ít người và hệ thống tôn giáo được tự quản lý công việc của mình một cách độc lập, ít chịu kiểm soát từ chính quyền trung ương.
Triều đình Ottoman hình thành trong thời kỳ này dường như không hề có sự thay đổi gì trong khoảng 4 thế kỷ sau đó. Năm 1360, không bao lâu sau khi Orhan mất, Murad I đã trở thành quốc vương mới và tiếp tục chinh phục những vùng lãnh thổ xung quanh để mở rộng sự thống trị của đế quốc Ottoman.
Mở mang bờ cõi và nội chiến
Trong khoảng 1 thế kỉ sau đó, sự kiểm soát của đế chế hùng mạnh này không ngừng được mở rộng tới vùng miền Đông địa trung hải và Balkan. Thessaloniki, một thành phố quan trọng của Venezia bị chiếm năm 1387.
Năm 1389, chiến thắng của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Kosovo làm cho Serbia mất quyền kiểm soát trên vùng đất này, mở đường cho các cuộc xâm lược châu Âu của Sultan. Trận Nicopolis năm 1396 được xem là cuộc Thập tự chinh cuối cùng của thời Trung cổ, trong trận này quân Thập tự chinh đại bại trước quân Ottoman.
Với sự mở rộng ảnh hưởng của người Thổ vào vùng Balkan, thì cuộc chinh phục chiến lược vào Constantinople đã trở thành mục tiêu quyết định. Đế quốc đã chiếm được các vùng đất Đông La Mã phụ cận Constantinople, nhưng người La Mã vẫn đứng vững được khi Tamerlane xâm lược Tiểu Á, và bỏ tù Sultan Bayezid I sau trận Ankara năm 1402.
Các lãnh thổ Ottoman ở vùng Balkan (điển hình như Thessaloniki, Macedonia và Kosovo) đều bị mất năm 1402 nhưng sau này được lấy lại bởi Murad II trong những năm 30, 40 của thế kỉ XV.
Từ năm 1402 đến 1413, nội chiến bùng nổ giữa các con của Bayezid, đất nước rơi vào loạn lạc, đế quốc Ottoman rơi vào thời kỳ đứt quãng trong lịch sử. Thời kỳ này chỉ thực sự kết thúc khi vua Mehmed II lên ngôi và xây dựng lại đất nước.
Bất cứ Sultan nào của đế quốc Ottoman cũng đều mang trong mình tham vọng mở rộng lãnh thổ bằng đội quân tinh nhuệ của đế quốc mình. Khát vọng đó khiến cho đế quốc đang dần lụi tàn Đông La Mã không khỏi lo sợ.
Đế quốc Ottoman hùng mạnh nhất lịch sử
Từ thời Vua Mehmed I và Mehmed II, quân đội Ottoman đã từng bước gặm nhấm rồi nuốt trọn cả vùng lãnh thổ La Mã rộng lớn. Đặc biệt vào thời Mehmed II, ông đã cho tái cấu trúc lại nhà nước và quân đội, thực hiện nhiều chính sách về giáo dục đồng thời ban hành bộ luật đầu tiên của Ottoman. Ông đã thể hiện kĩ năng quân sự tuyệt vời của mình trong cuộc chiến tranh đánh thẳng vào kinh đô Constantinople của La Mã trong năm 1453. Đế chế La Mã chính thức đổi ngôi, thành phố Constantinople đã trở thành kinh đô mới của đế quốc Ottoman, mở ra một kỷ nguyên mới cho đế chế Ottoman – kỷ nguyên phát triển thịnh vượng.
Từ khi khởi lập vào cuối thế kỉ XIII đến khi đạt được sự thịnh trị tối cao vào thế kỉ XVI, XVII, lãnh thổ Ottoman đã trải dài ở cả ba châu lục Á, u, Phi với diện tích lên đến 5,5 triệu km2 với khoảng 25 triệu dân – một con số khổng lồ vào thời kỳ này.
Cụ thể: Đế quốc Ottoman đã trải dài toàn bộ đông-nam châu Âu bờ bắc Địa Trung Hải, cả bờ biển bắc châu Phi cho đến Maroc phía nam Địa Trung Hải và trên phần lãnh thổ của Ottoman cũ ngày nay đã có gần 30 quốc gia được thành lập.
Vào đầu thế kỷ XVI, đế quốc Ottoman trở thành một trong những nhà nước lớn nhất thế giới thời bấy giờ với nền chính trị hùng mạnh. Vua Selim I – một trong những ông vua kiệt xuất của đế chế lên ngôi vào năm 1512 đã có công sáp nhập vùng Trung Đông vào lãnh thổ Ottoman.
Năm 1514, ông đã đánh bại vua Ismail I (1501-1524) nhà Safavid của đế quốc Ba Tư trong trận Chaldiran rồi đến năm 1517 đã tiêu diệt nhà Mamluk người trị vì ở Ai Cập, bắt đầu một thời kỳ Ai Cập thuộc Ottoman.
Năm 1520, Selim I mất, vua Suleiman I – người được phương tây biết đến với cái tên Suleiman Đại đế đã lên ngôi, đưa đế chế Ottoman lên đến đỉnh vinh quang trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, quân sự đến văn hóa, xã hội.
Ông đã tái xây dựng lại hệ thống luật pháp của Ottoman và tiếp tục công cuộc mở mang bờ cõi. Sau khi thôn tính được Beograd năm 1521, Suleiman mang quân chinh phục Vương quốc Hungary sau chiến thắng trong trận Mohács năm 1526. Sau đó, năm 1529 ông bao vây thành Wien, nhưng vì thời tiết ở đây khắc nghiệt nên quân đội ông rút lui.
Năm 1532, 25.000 quân Ottoman mở cuộc tấn công Wien, nhưng bị đẩy lui cách Wien 97 km tại pháo đài Guns. Sau cuộc mở mang xa nhất của đế quốc Ottoman năm 1543, hoàng đế Habsburg là Ferdinand công nhận quyền cai trị của Ottoman trên đất Hungary năm 1547.
Dưới triều đại Suleiman I, Transylvania, Wallachia và Moldova trở thành những công quốc chư hầu của đế quốc. Ở phía đông, Ottoman chiếm Baghdad từ tay Ba Tư năm 1535, và liên tiếp chiếm được Lưỡng Hà và Vịnh Ba Tư những năm sau đó. Khi thời đại Suleiman kết thúc, dân số Ottoman lên đến 15.000.000 người.
Từ năm 1571 – 1573, khi chiến tranh Thổ Nhĩ kỳ – Venezia nổ ra, hải quân Ottoman đã tiến quân xâm chiếm đảo Síp và cuối cùng buộc Venezia kí hòa ước nhượng hòn đảo này cho Ottoman trong năm 1573.
Giai đoạn đế quốc Ottoman suy yếu
Đầu thế kỉ XVII, đế quốc Ottoman bắt đầu rơi vào giai đoạn suy yếu. Các Sultan vào lúc này thường chỉ vui hưởng trong hậu cung, ngoài ra, binh đoàn Janissary thường hay nổi dậy. Bên ngoài, quyền lực của đế quốc Ottoman bị suy giảm trầm trọng đến nỗi tàu thuyền của người Venezia và người Cozak thường xuyên quấy phá. Đồng thời cũng vào thời điểm này, quân Ba Tư cũng mở cuộc tấn công vào lãnh thổ Ottoman ở Lưỡng Hà.
Năm 1656, dưới triều Mehmed IV (1648-1687), trong khi đế quốc gần bị sụp đổ, triều đình đành phải cử một người Albania 71 tuổi, Köprülü Mehmed Pasha làm tể tướng (1656-1661). Tuy nhiên Köprülü Mehmed Pasha đã có nhiều chính sách quyết liệt để bài trừ nạn tham nhũng đang tồn tại. Tình hình Ottoman đã ổn định hơn vào đầu những năm 1670.
Dưới quyền Tể tướng Köprülü Fazıl Ahmed Pasha (1661-1676), và sau đó là tể tướng Kara Mustafa Pasha (1676-1683), uy quyền của Ottoman được hồi phục. Trong khoảng thời gian này các hạm đội của Venezia, Ba Lan, Áo và Nga đã tấn công Ottoman nhưng liên tiếp bị đẩy lui. Quân đội Ottoman cũng thành công xâm chiếm Ukraine và Podolia.
Đế quốc Ottoman hồi phục
Đến năm 1680, đế quốc Ottoman đã khôi phục mạnh mẽ, khi lãnh thổ đạt mức rộng lớn nhất trong lịch sử đế quốc lên tới 11.5 triệu km². Đế chế Ottoman dù đạt được sự thịnh trị đỉnh cao song vẫn không dừng lại ở đó mà vẫn liên tục mở những cuộc tấn công xâm lược lãnh thổ của những quốc gia khác.
Năm 1683, đáp lời kêu gọi của Hungary chống lại hoàng đế Leopold I của Thánh Chế La Mã, Sultan Mehmed IV đã ra lệnh cho tể tướng Kara Mustafa phái 200.000 quân ngược dòng sông Donau, và lần thứ hai trong lịch sử, quân Ottoman tiến đến chân tường thành của Wien, nhưng cuối cùng bị liên minh các nước Tây Âu (Liên minh Thần thánh), do vua Ba Lan Jan III Sobieski chỉ huy, đánh bại.
Trận Wien đánh dấu sự bắt đầu của cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ (1683-1699) ở châu Âu. Trong những năm tiếp theo, quân Ottoman liên tiếp bại trận do sức tiến công từ Wien. Cuộc đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc với Hiệp ước Karlowitz ngày 26 tháng 1 năm 1699, và theo hiệp ước này Ottoman phải nhượng cho Áo một số vùng lãnh thổ như Hungary.
Giai đoạn trì trệ, cải tổ và hiện đại hóa
Nhưng sau khi bước sang thế kỷ XVIII, Ottoman lại rơi vào thời kỳ trì trệ, nhiều vùng lãnh thổ dưới sự kiểm soát của Ottoman ở những thế kỷ trước đã dần dần lấy lại được độc lập trên thực tế. Vào thế kỷ 18, chính quyền trung ương đã cho các lãnh đạo và thủ lĩnh địa phương nhiều mức tự quyết hơn. Một loạt các cuộc chiến đã diễn ra giữa đế quốc Nga và đế quốc Ottoman từ thế kỉ từ 17 đến thế kỉ thứ 19 nhằm mở rộng lãnh thổ về phía biển Đen và khu vực Caucasus. Nhưng phần lớn chiến thắng đều thuộc về phía Nga.
Vào giai đoạn sau của thời kỳ đình trệ, Ottoman đã có nhiều cải tổ trong nền giáo dục và công nghệ và đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, cũng chính trong giai đoạn này, các thế lực bảo thủ và phản đối công nghệ xuất hiện. Hội đoàn các nhà văn của đế chế cho rằng kỹ thuật in ấn là “sáng tạo của quỷ dữ” khiến công nghệ in, được Gutenberg Johannes phát minh ở châu Âu năm 1450, phải mất 43 năm sau, tức là năm 1492, mới được giới thiệu tại Constantinople nhờ vào những người Do thái.
Đến thời kỳ Sultan Ahmed III (1703-1730) với hoa tulip được dùng như một biểu tượng thể hiện sự thanh bình của triều đại nên còn được biết tới là thời đại Tulip. Trong giai đoạn này, chính sách của đế chế với châu Âu có sự thay đổi. Đất nước thanh bình từ năm 1718 đến 1730, sau khi Ottoman thắng Nga trong Chiến dịch Pruth năm 1712 và hiệp định Passarowits được ký kết sau đó mang đến một giai đoạn đình chiến.
Đế quốc này sau đó đang cải thiện hệ thống thành lũy ở các thành phố tiếp giáp các nước Balkan như một hành động phòng vệ chống lại chủ nghĩa bành trướng của châu Âu. Một số cải cách không dứt khoát cũng được tiến hành: hạ thuế; cải thiện hình ảnh của các bang Ottoman; hình thái đầu tiên của đầu tư tư nhân và doanh nghiệp tư nhân xuất hiện.
Nỗ lực cải tổ quân sự Ottoman được bắt đầu với Sultan Selim III (1789-1807) – người đưa ra những nỗ lực lớn đầu tiên để hiện đại hóa quân đội gần biên giới châu Âu. Tuy nhiên, đáng buồn thay những nỗ lực của Selim đã khiến ông mất đi ngai vàng và cả mạng sống bởi cuộc khởi nghĩa của quân đoàn Janissary.
Các vấn đề với các Janissary sau đó đã được giải quyết với phương thức hết sức đẫm máu bởi 1 trong những người kế tục ông, hoàng đế Mahmud II (1808-1839) – người đã tiến hành thảm sát rồi giải tán quân đoàn Janissary năm 1826.
Đế chế Ottoman suy yếu và sụp đổ
Đến thế kỷ 19, đế chế Ottoman suy yếu thực sự khi lãnh thổ ngày càng bị thu hẹp, kinh tế sụt giảm và bắt đầu gia tăng sự phụ thuộc vào phần còn lại của châu Âu. Các cuộc chiến tranh Balkan (Balkan Wars) trong hai năm 1912 và 1913 đã khiến Đế chế Ottoman hao tổn rất lớn về lãnh thổ và dân số.
Giữa thế kỷ 19, đế chế Ottoman đã thực hiện một cuộc cải cách nhằm hiện đại hóa đất nước, cố gắng lấy lại một phần sức mạnh đã mất, nhưng nỗ lực này phần lớn không thành công.
Khi Thế chiến thứ I (1914-1918) nổ ra, đế chế Ottoman đã gia nhập một liên minh bí mật với Đức. Cuộc chiến sau đó là thảm họa bởi sự sụp đổ của đế chế Ottoman là hậu quả trực tiếp từ Thế chiến I. Hơn hai phần ba quân đội Ottoman bỏ mạng trong Thế chiến I và có tới 3 triệu dân thường thiệt mạng.
Những năm sau khi Thế chiến thứ I kết thúc, Mustafa Kemal Atatürk và lực lượng Cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1923, lực lượng cách mạng Thổ thắng trận, Sultan Mehmed VI Vahdettin buộc phải thoái vị, và Mustafa Kemal Atatürk thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, dựa trên một phần lãnh thổ của đế quốc Ottoman.
Đế quốc Ottoman trong hơn 600 năm tồn tại đã trở thành một đế quốc hùng mạnh với lãnh thổ trải dài, quân đội tinh nhuệ và đa dạng về sắc tộc, tôn giáo, văn hóa. Tuy kết thúc của chiến tranh thế giới thứ nhất đồng thời đã chấm dứt vai trò lịch sử của đế chế hùng mạnh này song Ottoman thực sự đã đặt một dấu ấn đáng nhớ trong dòng chảy của lịch sử nhân loại.
Lịch sử thay đổi lãnh thổ của Đế quốc Ottoman từ năm 1299-1923:
- Màu xanh: Lãnh thổ Đế quốc Ottoman
- Màu đỏ: Lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì sau khi Đế quốc Ottoman tan rã
Tóm tắt nhanh Đế quốc Ottoman:
Đế quốc Ottoman còn được gọi là đế quốc Osman hay đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ cũ: دولتِ عَليه عُثمانيه Devlet-i Âliye-i Osmâniyye, dịch nghĩa “Nhà nước Ottoman Tối cao”; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại: Osmanlı İmparatorluğu), là một đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ đã tồn tại từ thời kì trung đại năm 1299 đến 1923 (Wikipedia).
Thời đỉnh cao quyền lực của đế quốc Ottoman ở thế kỷ 16 và thế kỷ 17, các lãnh thổ của đế chế này gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần đông nam châu Âu đến tận Kavkaz và tỉnh Aceh của đảo Sumatra thuộc Indonesia. Đế quốc Ottoman chiếm một vùng có diện tích khoảng 5,6 triệu km², nhưng vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc rộng hơn rất nhiều nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản nhưng không được nhiều người biết hoặc đề cập tới cụ thể như Ả rập thuộc Ottoman và một phần ven sông của vùng Sừng Châu Phi thì có thể đến 11,5 triệu km², nơi quyền bá chủ của đế quốc này được công nhận.
Với Istanbul là thủ đô, một khu vực trọng yếu của tuyến giao thương ở Châu Âu, đế quốc này có thể quyền kiểm soát các vùng đất xung quanh Địa Trung Hải cũng như cả toàn bộ Châu Âu. Nhờ có vị trí địa lí quan trọng, đế quốc Ottoman là trung tâm của sự tương tác giữa thế giới phương Đông và phương Tây trong sáu thế kỷ.
Đế quốc Ottoman từng được cho là đã bước vào thời kỳ suy tàn sau cái chết của Sultan Suleiman I, nhưng quan điểm này không còn được đa số các sử gia học thuật ủng hộ. Đế quốc tiếp tục duy trì một nền kinh tế, xã hội và quân sự trong suốt thế kỷ 17 và trong phần lớn thế kỷ 18. Tuy nhiên, trong thời kỳ hòa bình kéo dài từ năm 1740 đến năm 1768, hệ thống quân sự của Ottoman đã bắt đầu lạc hậu hậu so với hai đối thủ Châu Âu truyền kiếp của họ là đế quốc Áo và đế quốc Nga.
Người Ottoman do đó đã phải hứng chịu những thất bại quân sự nghiêm trọng vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 khi thực hiện các cuộc chiến tranh, điều này đã thúc đẩy họ bắt đầu một quá trình cải cách và hiện đại hóa toàn diện được gọi là Tanzimat. Do đó, trong suốt thế kỷ 19, nhà nước Ottoman đã trở nên hùng mạnh và có tổ chức hơn rất nhiều, nhưng do cải tiến đã quá muộn nên phải chịu thêm tổn thất về lãnh thổ, đặc biệt là ở vùng Balkan, nơi một số nhà nước mới bắt đầu đấu tranh độc lập.
Vào đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đế quốc Ottoman liên minh với Liên minh Trung tâm với hy vọng mở rộng tầm ảnh hưởng về ngoại giao lẫn sức mạnh quốc phòng nhưng chính điều đó đã trở thành một trong những sai lầm lớn nhất, là một trong những nguyên nhân sụp đổ của đế quốc này.
Sự can thiệp của Hoa Kỳ và sự chiếm đóng các phần lãnh thổ của các lực lượng Khối Hiệp ước đã dẫn đến sự phân chia đế quốc Ottoman giữa đế quốc Anh và đế quốc Pháp. Sau đó, các cuộc nổi dậy giành độc lập do Mustafa Kemal Atatürk lãnh đạo chống lại quân Hiệp ước đang chiếm đóng lãnh thổ thành công đã dẫn đến sự thành lập của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng Anatolian và chế độ quân chủ Ottoman bị bãi bỏ vào năm 1923.