Tiếp theo loạt bài viết về bệnh tiểu đường, trong bài này sẽ nói về phương pháp thử nghiệp, chẩn đoán và cách chữa trị bệnh tiểu đường.
Thử nghiệm & Chẩn đoán bệnh tiểu đường
Đọc thêm:
- Triệu chứng của bệnh tiểu đường
- Nguyên nhân dẫn đến mắc bệnh tiểu đường
- Những biến chứng nguy hiểm của bệnh tiểu đường
Thử nghiệm chứng tiểu đường loại I và tiểu đường loại II
- Đo lượng đường huyết ngẫu nhiên (random sample): thử máu ở bất cứ thời điểm nào trong ngày, lượng đường huyết ở mức 200 mg/dL hoặc 11.1 mmol/L trở lên là dấu hiệu của tiểu đường.
- Đo lượng đường huyết sau khi nhịn ăn qua đêm (overnigh fasting): lượng đường huyết ở mức 70-99mg/dL (3.9-5.5mmol/L) là bình thường; nếu lượng đường huyết khoảng 126 mg/L (7mmol/L) trở lên là bị chứng tiểu đường.
Sau khi thử máu và có dấu hiệu của tiểu đường, bác sĩ sẽ cần thử nghiêm để định loại tiểu đường loại I hoặc tiểu đường loại II, vì chữa trị có phần khác biệt. Bác sĩ có thể dùng:
- Glycated hemoglobin (AC1): đo lượng glu tại hemoglobin của máu (hồng cầu) trong suốt 2-3 tháng vừa qua. Lượng đường huyết càng cao, lượng hemoglobin với glu càng lớn. Trung bình, lượng A1C bình thuòng là 7% hoặc thấp hơn.
Thử nghiệm chứng tiểu đường khi mang thai
Việc thử nghiệm thường được áp dụng cho mọi phụ nữ mang thai. Hầu hết các bác sĩ dùng loại thử nghiệm có tên “glucose challenge test” tại thời điểm 24-28 tuần thai nghén, hoặc sớm hơn nếu bệnh nhân có khuynh hướng dễ bị tiểu đường.
- Glucose challenge” test: Bệnh nhân uống một dung dịch glucose rồi thử máu 1 tiếng sau đó. Đường huyết trên 140mg/L (7.8 mmol/L) có nghĩa là bị tiểu đường khi mang thai. Bác sĩ cần xác nhận bằng cách thử lần thứ nhì.
- Thử nghiệm thứ nhì bao gồm việc nhịn ăn qua đêm. Bệnh nhân uống dung dịch chứa nhiều glucose hơn nữa, thử máu sau 1 tiếng, 2 tiếng và 3 tiếng.
Thử nghiệm chứng tiền tiểu đường
Hội Nội Tiết Hoa Kỳ đề nghị rằng những người có thân nhân bị tiểu đường loại II, mập phì hay bị hội chứng “metabolic” nên thử nghiệm. Phụ nữ bị tiểu đường khi mang thai cũng nên thử nghiệm.
Bác sĩ có thể dùng một hoặc nhiều loại thử nghiệm sau:
- Thử đường huyết sau khi nhịn ăn qua đêm: Lượng đường huyết từ 100-125 mg/L (5.6-6.9 mmol/L) được xem như tiền tiểu đường.
- Oral glucose tolerance test: Lấy máu sau khi nhịn ăn qua đêm, sau đó bệnh nhân uống dung dịch chứa glucose, thử máu sau đó 2 tiếng. Lượng đường huyết dưới 140 mg/dL (7.8 mmol/L) được xem như bình thường; đường huyết ở mức 140-199 mg/L (7.8 – 11 mmol/L) là dấu hiệu của tiền tiểu đường hoặc còn gọi là “impaired glucose tolerance” (IGT). Đường huyết ở mức 200 mg/dL (11.1 mmol/L) hoặc cao hơn là bị tiểu đường.
Trước khi đi gặp bác sỹ đển khám bệnh tiểu đường, ta nên sửa soạn bằng cách:
- Ghi chép kỹ lưỡng nhưng chi tiết về các triệu chứng xảy ra, triệu chứng gì, có từ bao lâu
- Chi tiết về bệnh sử, bị những chứng bệnh gì, từ bao lâu, duọc chữa trị như thế nào
- Mang theo danh sách mọi loại thuốc đang sử dụng, kể cả các món dinh dưỡng phụ, duọc thảo, sinh tố…
- Ghi chép bệnh sử của thân nhân (cha me, anh chị em ruột)
- Ghi chép sẵn những câu hỏi muốn thảo luận với bác sĩ
Những điều bác sĩ cần tìm hiểu và có thể hỏi khi đi khám tiểu đường:
- Triệu chứng xuất hiện từ bao giờ
- Triệu chứng kể trên liên tục hay chỉ thỉnh thoảng?
- Triệu chứng nặng hay nhẹ, trầm trọng ra sao? (ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày như thế nào?)
- Trong gia tộc có ai bị bệnh tương tự?
Cách chữa trị bệnh tiểu đường
Tùy theo loại tiểu đường, việc theo dõi đường huyết, insulin và thuốc uống có thể được sử dụng để chữa trị. Ghép tụy tạng cũng có thể là cách chữa trị cho một số bệnh nhân.
Bất kể loại tiểu đường nào, duy trì cách dinh dưỡng khỏe mạnh, vận động thân thể và giữ một trọng lượng cơ thể thích hợp là những yếu tố chính để chữa tiểu đường.
- Cách ăn uống giữ gìn sức khỏe: Không có cách ăn uống nào đặc biệt cho tiểu đường. Người bị tiểu đường không cần phải ăn uống những món nhàm chán mà sẽ cần ăn uống đầy đủ rau trái và hạt ngũ cốc, (những món thức ăn có tính dinh dưỡng cao, ít mỡ và ít năng lượng), và bớt thức ăn như các món thịt mỡ từ động vật cũng như những món ngọt.
- Sự hiểu biết về thức ăn là điểu rất quan trọng: ăn món nào và ăn bao nhiêu các món thức ăn thì đầy đủ chất dinh dưỡng. Chuyên viên về dinh dưỡng có thể giúp ta soạn thảo, lập chương trình ăn uống theo khuynh hướng duy trì sức khỏe, thích hợp với lối sống và vừa miệng với từng cá nhân. Điều quan trọng là việc duy trì cách ăn uống đồng nhất. Để giữ lượng đường huyết ở mức đều đặn, nên ăn uống cùng một lượng calorie tương đương mỗi ngày với tỷ lệ cố định của lượng tinh bột, chất đạm và chất béo.Vận động thân thể: Mọi người cần vận động thân thể, và người bị tiểu đường cũng vậy. Sự vận động hạ đường huyết qua việc chuyển glucose vào tế bào nơi glucose được sử dụng làm năng lượng. Sự vận động cũng gia tăng tính mẫn cảm của tế bào trước tác dụng của insulin, điều này có nghĩa là cơ thể cần ít insulin để chuyển glucose vào tế bào. Vì vậy nên chọn cách vận động thích hợp nhất với mính, như tản bộ, bơi lội hoặc dùng xeđạp. Điều quan trọng là đặt việc vận động vào thời khoá biểu hàng ngày, dùng ít nhất 30 phút trong ngày để vận động cơ thể.
Việc chữa trị chứng tiểu đường loại I và tiểu đường loại II đều đòi hỏi việc theo dõi lượng đường huyết song song với insulin và các thứ thuốc chữa tiểu đường khác.
Theo dõi lượng đường huyết: Tùy theo chương trình chữa trị, ta có thể cần đo và ghi chép lượng đường huyết nhiều lần mỗi tuần. Việc theo dõi đường huyết cẩn thận và kỹ lưỡng là cách duy nhất để duy trì lượng đường huyết ở mức bình thường.
Ngay cả khi ta ăn uống theo mức cố định, lượng đường huyết cũng vẫn có thể thay đổi không ngờ. Với sự giúp đỡ của các chuyên viên, ta sẽ nhận ra cách đường huyết trong cơ thể thay đổi theo sự vận động, thực phẩm, thuốc men, bệnh tật, rượu, áp lực và với phụ nữ, sự thay đổi về nội tiết tố.
Ngoài việc theo dõi lượng đường huyết mỗi ngày, bác sĩ cũng có thể đo lượng A1C định kỳ, loại thử nghiệm này cho thấy mức glucose trong máu trong suốt thời gian 2-3 tháng. Mức A1C thực sự cho thấy mức hiệu quả của việc chữa trị. Một lượng A1C cao có nghĩa là việc chữa trị cần được thay đổi, từ lượng insulin đến cách ăn uống.
Insulin:
Người bị chứng tiểu đường loại I cần dùng insulin để duy trị sự sống. Một số người bị tiểu đường loại II cũng cần insulin. Phân hóa tố trong dạ dày sẽ tiêu hủy insulin nên ta không thể dùng insulin như loại thuốc uống. Thông thường insulin được chích qua mũi kim ống chích, đôi khi qua dụng cụ có tên “insulin pen”, nhìn giống như một cây bút nhưng chứa insulin và đấu mũi nhọn như mũi kim.
Bơm insulin là một dụng cụ khác, có kích thước tương tự như cái điện thoại di động, đeo sát bên mình, chứa insulin. Nối với bơm là một ống nhỏ đặt dưới da bụng. Bơm insulin được đặt sẵn để chuyển một lượng insulin cố định vào cơ thể. Lượng insulin có thể theo một thảo trình có sẵn để tự động gia giảm theo bữa ăn, lúc vận động và lượng đường huyết.
Nhiều loại insulin có mặt trên thị trường, kể cả loại insulin có tác dụng ngay, loại có tác dụng chậm hoặc trung bình. Tùy theo sự cần thiết của bệnh nhân, bác sĩ có thể dùng nhiều loại insulin chung với nhau.
- Thuốc uống và các loại khác: Đôi khi cả thuốc uống và các loại thuốc chích khác cũng được sử dụng. Có loại thuốc kích thích tụy tạng chế tạo và tiết ra thêm insulin. Có loại ngăn chặn sự hoạt động của trong việc chế tạo và chuyển glucose vào máu, kết quả là cơ thể bớt dùng insulin để chuyển glucose vào máu. Loại khác ngăn tác dụng chuyển hóa tinh bột của các phân hóa tố tại dạ dày, do đó tế bào mẫn cảm hơn với insulin. Bác sĩ cũng có thể cho dùng thêm aspirin để ngăn ngừa chứng tim mạch.
- Ghép bộ phận: Trong một số bệnh nhân bị chứng tiểu đường loại I, ghép tụy tạng có thể cách chữa trị. Những loại ghép bộ phận khác đang đuọc khảo nghiệm. Khi cuộc giải phẫu ghép tụy tạng thành công, bệnh nhân không còn cần insulin nữa. Nhưng ghép tụy tạng không phải bao giờ cũng thành công, và cuộc giải phẫu có những rủi ro trầm trọng. Bệnh nhân cần dùng thuốc men để ngăn phản ứng “phế bỏ” (rejection) suốt đời. Các loại thuốc này có nhiều phản ứng phụ, kể cả nhiễm trùng, hư hoại bộ phận và ung thư. Các phản ứng phụ có thể trầm trọng hơn chứng tiểu đường nên việc ghép tụy tạng chỉ dành cho các bệnh nhân không thể kiểm soát đường huyết hoặc những bệnh nhân bị biến chứng nặng nề từ tiểu đường.
Chữa trị chứng tiểu đường khi mang thai
Kiềm soát lượng đường huyết là điều thiết yếu để duy trì sức khỏe cho thai nhi và ngăn ngừa biến chứng khi lâm bồn. Ngoài việc duy trì cách ăn uống đủ chất dinh dưỡng và vận động cơ thể, việc chữa trị đôi khi còn bao gồm cả việc theo dõi lượng đường huyết, và dùng insulin.
Bác sĩ cũng theo dõi lượng đường huyết khi lâm bồn. Nếu lượng đường huyết lên cao, thai nhi có thể tạo ra một lượng insulin lớn và dẫn đến việc hạ đường huyết sau khi chào đời.
Chữa trị chứng tiền tiểu đường
Nếu bị chứng tiền tiểu đường, cách sống khỏe mạnh có thể sẽ dẫn đến việc hạ đường huyết xuống mức bình thường hay ít ra thấp hơn lượng đường huyết trong chứng tiểu đường loại II. Giữ cơ thể ở mức nhẹ ký và ăn uống kỹ lưỡng rất quan trọng.
Đôi khi thuốc men như loại thuốc uống metformin và acarbose có thể được sử dụng, nhất là khi bệnh nhân có các chứng bệnh khác như bệnh tim mạch, mỡ trong gan hoặc u nang buồng trứng (polycystic kidney).
Trong những trường hợp khác, thuốc men để giảm cholesterol và giảm huyết áp có thể được dùng chung với thuốc trị tiểu đường.
Cách chữa trị bệnh tiểu đường.
Sống một cách khỏe mạnh
Tiểu đường là bệnh nguy hiểm. Cần theo đuổi chương trình chữa trị một cách kỹ lưỡng. Ăn uống cẩn thận và vận động cơ thể thuòng xuyên là hai điều thiết yếu trong đời sống hằng ngày. Tự chăm sóc mình cẩn thận sẽ giảm đuọc nhiều biến chứng của tiểu đường.
- Cẩn thận về răng miệng: Tiểu đường có thể dẫn đến nhiễm trùng nướu răng dễ dàng. Đánh răng, dùng chỉ (floss) để giữ sạch răng ít nhất 2 lần mỗi ngày. Nha sĩ cần khám răng nướu định kỳ mỗi sáu tháng. Cần đi khám răng khi nướu răng sưng đỏ hoặc chảy máu.
- Đeo vòng tay hay thẻ bài trên cổ nói rõ về tình trạng tiểu đường của mình. Giữ một hộp glucagon bên mình phòng khi đường huyết hạ đến mức nguy hiểm; thân nhân cần biết cách sử dụng glucagon.
- Cần khám bệnh tồng quát kể cả khám mắt hằng năm để bác sĩ tìm kiếm dấu vết của biến chứng trong cơ thể kể cả hoại võng mạc, đục thủy tinh thể và glaucoma.
- Theo đúng lịch trình chủng ngừa; tiểu đường gây suy yếu hệ đề kháng nên dễ bị nhiễm trùng. Cần chủng ngừa cúm hàng năm, chủng ngừa tetanus mỗi 10 năm, và có thẻ chủng ngừa pneumonia hàng năm.
- Chăm sóc bàn chân cẩn thận: Rửa chân trong nước ấm, lau khô, nhất là vùng da giữa các ngón chân. Dùng kem dưỡng da ở bàn chân (tránh giữa ngón chân). Xem xét chân hằng ngày xem có bị phồng, bị vết cắt, lở, sưng đỏ hay không… Tiểu đường ảnh hưởng đến thần kinh dẫn truyền cảm giác nên có thể không cảm thấy đau đớn khi trầy lở tại bàn chân; các vết thương này dễ dàng nhiễm trùng và rất khó chữa. Đi khám bệnh nếu vết thương không lành sau vài ngày.
- Giữ huyết áp và cholesterol ở mức bình thường.
- Nếu đang hút thuốc lá, thuốc lào, cần ngưng ngay. Hút thuốc gia tăng rủi ro bị biến chứng từ tiểu đường, kể cả trụy tim, đột quỵ, hư hoại thần kinh và hư thận. Những người bị tiểu đường hút thuốc lá có nguy cơ tử vong vì bệnh tim mạch cao gấp ba lần những người khác.
- Nếu uống rượu, cần giới hạn ở mức tối thiểu, rượu gia tăng hoặc hạ đường huyết, tùy theo lượng rượu đã uống và có ăn uống cùng lúc hay không. Rượu cũng đuọc chuyển hóa thành calorie, và số calorie này tính vào lượng calorie mỗi ngày.
Cách ngăn ngừa bệnh tiểu đường
- Chứng tiểu đường loại I không thể phòng ngừa. Tuy nhiên cách sống khỏe mạnh, chừng mực sẽ ngăn ngừa được chứng tiền tiểu đường và tiểu đường loại II cũng như tiểu đường khi mang thai.
- Ăn uống chừng mục, ít mỡ và calorie, ăn nhiều rau trái, ngũ cốc để lấy chất dinh dưỡng
- Vận động thường xuyên, ít nhất 30 phút mỗi ngày.
- Xuống cân: Nếu bị mập phì, cần giảm cân: Thí dụ, trọng lượng cơ thể là 200 cân Anh, giảm 5% là 10 cân Anh, sẽ giảm nguy cơ bị tiểu đường. Giữ trọng lượng cơ thể ở mức trung bình.
Đọc thêm các bài viết hữu ích trong chuyên đề: Bệnh tiểu đường
Nguồn: Bệnh tiểu đường – Bác sỹ Trần Quý Lê